Gia Lai nằm ở phía Bắc Tây Nguyên, có diện tích tự nhiên lớn nhất trong khu vực, địa hình chủ yếu là núi cao và cao nguyên bazan màu mỡ. Vùng đất này là nơi cư trú lâu đời của nhiều cộng đồng cư dân, đặc biệt là các dân tộc bản địa như Jrai, Bahnar cùng với Êđê, Sêđăng, Giẻ Triêng và sau này là người Kinh, Hoa, Tày, Nùng, Thái… Cư dân nơi đây từ rất sớm đã sáng tạo và lưu giữ một kho tàng văn hóa phong phú, trong đó nổi bật là hệ thống sử thi đồ sộ, các lễ hội truyền thống, nghệ thuật cồng chiêng – được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại, cùng với kiến trúc nhà rông, nhà sàn mang đậm bản sắc núi rừng.
Từ thời tiền – sơ sử, dấu tích cư trú của con người đã hiện diện qua các công cụ đá, đồng, sắt và hình thức mộ táng đặc trưng như mộ chum, mộ đất, phản ánh đời sống xã hội đã khá phát triển. Trong dòng chảy lịch sử, vùng đất Gia Lai từng chịu ảnh hưởng sâu đậm của vương quốc Chămpa, đặc biệt ở phía đông và nam, thể hiện qua nhiều di tích, dấu tích kiến trúc và giao lưu văn hóa. Sau quá trình mở cõi về phương Nam của dân tộc Việt, Gia Lai dần trở thành một bộ phận trong lãnh thổ Đại Việt, là vùng đất giao thoa văn hóa giữa cộng đồng cư dân bản địa Tây Nguyên với cư dân người Việt ở duyên hải miền Trung.
Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, Gia Lai trở thành địa bàn chiến lược ở Tây Nguyên, nơi thực dân xây dựng các đồn điền, khai thác tài nguyên và áp đặt chế độ cai trị khắc nghiệt. Nhân dân các dân tộc Gia Lai đã nhiều lần vùng lên đấu tranh chống ách đô hộ, tiêu biểu là các phong trào khởi nghĩa của người Jrai, Bahnar với tinh thần bất khuất, giữ vững núi rừng. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Gia Lai tiếp tục là hậu cứ quan trọng, nơi quân và dân kiên cường chiến đấu, góp phần vào thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954.
Thời kỳ chống Mỹ, Gia Lai cùng với Kon Tum trở thành chiến trường ác liệt bậc nhất, là “nóc nhà Đông Dương” trong toan tính chiến lược của kẻ thù. Tại đây đã diễn ra nhiều trận đánh và chiến dịch lớn, trong đó có Chiến thắng Pleiku năm 1965, mở màn cho cuộc phản công chiến lược của quân dân miền Nam, và Chiến dịch Tây Nguyên mùa xuân năm 1975, giải phóng Buôn Ma Thuột, tạo bước ngoặt quyết định tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trong suốt những năm tháng ấy, nhân dân các dân tộc Gia Lai đã bền bỉ, anh dũng, trở thành biểu tượng của tinh thần bất khuất nơi đại ngàn Tây Nguyên.
Sau ngày thống nhất, Gia Lai cùng Kon Tum hợp nhất thành tỉnh Gia Lai – Kon Tum, đến năm 1991 tách ra, Gia Lai trở thành một tỉnh độc lập với diện tích rộng lớn, tiềm năng phong phú. Trải qua hơn ba thập kỷ đổi mới, Gia Lai đã vươn lên mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực. Với hơn 40 dân tộc anh em cùng sinh sống, tỉnh không chỉ giữ gìn được bản sắc văn hóa truyền thống mà còn phát huy, kết hợp với những yếu tố hiện đại để tạo nên diện mạo mới. Gia Lai nổi tiếng với không gian văn hóa cồng chiêng, với những lễ hội như lễ đâm trâu, lễ mừng lúa mới, lễ bỏ mả, lễ hội nhà rông, cùng kho tàng sử thi như Đam San, Xinh Nhã – những áng sử thi hào hùng phản ánh khát vọng và trí tuệ của cư dân bản địa.
Ngày nay, Gia Lai không chỉ được biết đến là một vùng đất giàu truyền thống lịch sử – cách mạng, mà còn là trung tâm kinh tế – văn hóa quan trọng của Tây Nguyên, có thế mạnh về nông nghiệp, đặc biệt là các cây công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su, hồ tiêu, chè. Cùng với đó, các danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Biển Hồ Pleiku, thác Phú Cường, cao nguyên Kon Hà Nừng, hay những cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn đã làm nên thương hiệu du lịch Gia Lai. Vùng đất và con người nơi đây vừa mang đậm bản sắc Tây Nguyên, vừa hội nhập, phát triển, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
English
In bài viết



